Theo khảo sát nhu cầu của Nam Cực, các tổ chức, công ty nước ngoài “rất quan tâm” đến tín chỉ carbon rừng của Việt Nam.
Kết quả khảo sát được công ty tư vấn khí hậu South Pole (Thụy Sĩ) trình bày tại hội thảo tư vấn “Cơ hội kinh doanh tín dụng carbon rừng tại Việt Nam” diễn ra ngày 4/12 tại Hà Nội.
Cụ thể, 33% người mua được khảo sát rất quan tâm đến tín chỉ carbon rừng và coi Việt Nam là quốc gia đầy triển vọng. Ngoài ra, trung bình có 40% quan tâm, sẵn sàng tìm hiểu và tìm kiếm cơ hội mua hàng.
Theo South Pole, khách hàng tiềm năng bao gồm các tổ chức tài chính, quỹ đầu tư, công ty thương mại, nhà giao dịch và môi giới tín dụng, chính phủ và tập đoàn. Họ ưu tiên khối lượng khoảng 100.000 đến 500.000 tấn carbon cho mỗi giao dịch, với mức giá dao động từ 5 USD đến 15 USD, mặc dù nhiều người mua không muốn tiết lộ mức giá dự kiến.
Về loại hình dự án tạo tín dụng, các bên ưu tiên nhất là trồng rừng và phục hồi rừng (A/R). Tiếp theo là quản lý và cải thiện rừng (IFM), giảm phát thải từ mất rừng và suy thoái rừng (REDD+), phục hồi và bảo tồn đất ngập nước (WRC). Họ tìm kiếm các khoản vay dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế uy tín và phổ biến như Verra, ART và Gold Standard.
Đại diện South Pole cho biết, khách hàng muốn giảm thiểu rủi ro pháp lý nên ưu tiên mức độ hoàn thiện của dự án. Lý tưởng nhất đối với người mua là một dự án đã phát hành thành công các khoản vay, hoàn thành chứng nhận và đạt được sự đồng thuận của các bên liên quan.
Đại diện Nam Cực cho biết: “Là một thị trường carbon hình thành, Việt Nam có nhiều cơ hội để lồng ghép nhu cầu và tiêu chí của người mua vào khuôn khổ thị trường carbon và Điều 6 (cơ chế hợp tác quốc tế của Thỏa thuận khí hậu Paris)”.
Ngoài các dự án tín chỉ phát thải carbon rừng trong tương lai tại Việt Nam, người mua cũng quan tâm đến số tiền tín dụng còn lại theo Thỏa thuận thanh toán giảm phát thải khí nhà kính (ERPA) giữa Chính phủ Việt Nam và Quỹ đối tác carbon lâm nghiệp của Ngân hàng Thế giới (FCPF).
Dự án này sẽ được triển khai trên diện tích 2,9 triệu ha rừng tự nhiên tại 6 tỉnh Bắc Trung Bộ (nay là 5 tỉnh), với mục tiêu giảm 10,3 triệu tấn CO2 trong thời gian 6 năm bắt đầu từ năm 2018. Đáng chú ý, Việt Nam đã vượt mục tiêu trong kỳ báo cáo đầu tiên 2018-2019, giúp giảm 16,2 triệu tấn CO2.
Sau khi nhận được khoản thanh toán từ Ngân hàng Thế giới cho số lượng mục tiêu 10,3 triệu tấn, hơn 5,9 triệu tấn dư thừa sẽ được xem xét thương mại để tạo thêm doanh thu. Theo một cuộc khảo sát ở Nam Cực, 73% người mua cho biết họ “có thể quan tâm”.
Tại hội nghị, đại diện Tổ chức Tăng cường Tài chính Lâm nghiệp (Emergent) – cơ quan được ủy quyền của Liên minh Giảm phát thải thông qua Tăng cường Tài chính Lâm nghiệp (LEAF) cho biết đã bày tỏ ý định tiếp thu và thúc đẩy kế hoạch này với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Một góc Vườn quốc gia Bạch Mã – một trong những đơn vị được hưởng lợi từ ERPA – tháng 3/2025. Ảnh: Võ Thanh
Khảo sát tại các địa phương tham gia ERPA của Công ty Tư vấn Năng lượng và Môi trường (VNEEC) cho thấy hầu hết đều muốn bán tín dụng dư thừa cho các nguồn phát thải khí nhà kính lớn thông qua Cơ chế chi trả dịch vụ môi trường rừng (80%) hoặc bán lại cho Ngân hàng Thế giới (60%).
Về các dự án tín chỉ carbon trong tương lai, 100% đô thị đánh giá REDD+ là loại hình có tiềm năng cao nhất và 60% đô thị chọn IFM.
Tuy nhiên, theo bà Đặng Thị Hồng Hạnh, đồng trưởng phòng và chuyên gia về thị trường carbon của VNEEC, thách thức thị trường hiện nay là việc thương mại hóa tín chỉ carbon ở Việt Nam vẫn còn khoảng trống pháp lý.
Đặc biệt, ở Việt Nam chưa có quy định chính thức về giá, chỉ có dự thảo nghị định quy định nguyên tắc và hai phương pháp xác định giá khởi điểm nên các tổ chức thiếu cơ sở thống nhất để định giá.
Khi nói đến chia sẻ lợi ích, không có cơ chế chung nào áp dụng cho tất cả các khoản tín dụng carbon rừng. Nghị định 107 chỉ áp dụng cho ERPA, trong khi dự thảo nghị định mới chỉ giới hạn đề cập đến nguyên tắc quản lý và sử dụng nguồn thu. Ngoài ra, còn tồn tại những vấn đề về hạ tầng giao dịch và kỹ thuật, như hệ thống đăng ký quốc gia, sàn giao dịch carbon chưa hoạt động, carbon rừng chưa là chỉ số chính thức trong kiểm kê rừng.
Các chuyên gia của VNEEC khuyến nghị sớm áp dụng các quy định và tiêu chuẩn quốc gia liên quan đến lĩnh vực thương mại carbon, trao đổi tín dụng quốc tế, dịch vụ hấp thụ và lưu trữ carbon rừng và tiêu chuẩn tín dụng carbon rừng quốc gia. Đồng thời, phát triển hệ sinh thái hỗ trợ thị trường bao gồm các tổ chức tài chính, tổ chức tư vấn, đánh giá và liên hệ với người mua.
viễn thông
